Bất cứ xã hội, nhà nước, quốc gia dân tộc nào muốn phát triển đều phải liên tục vận động, phải tự làm mới mình theo hướng tiến bộ. Tự làm mới mình có thể ở nhiều mức độ và bằng nhiều cách khác nhau như cách mạng, cải cách, cải tổ… tùy vào nhu cầu và điều kiện cụ thể nhưng đều phải hướng đến đổi mới.
…Nhìn lại lịch sử dân tộc ta, có thể thấy có những cuộc cải cách cơ bản thành công, có hiệu quả (Khúc Thừa Dụ – Khúc Hạo, Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Lê Thánh Tông, Trịnh Cương, Đào Duy Từ, Minh Mạng); có những cuộc không trọn vẹn (Hồ Quý Ly); có những ý tưởng, trào lưu không được thực hiện hoặc không thành công (Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh).
Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao các cuộc cải cách khi thành, khi bại?
Bất cứ cuộc cải cách nào cũng xuất phát từ nhu cầu phải thay đổi, đổi mới để tồn tại và phát triển của các chế độ, thể chế xã hội, quốc gia dân tộc. Mỗi một cuộc cải cách đều có nhiệm vụ của nó trong những bối cảnh cụ thể, những yếu tố chủ quan và khách quan cụ thể. Tất cả các yếu tố đều ảnh hưởng, chi phối đến tiến trình và kết quả cải cách. Đó là nhu cầu cải cách, thời cơ cải cách, tư tưởng, tư duy cải cách, lực lượng cải cách, thủ lĩnh cải cách… Ở đây xin phép chỉ bàn về yếu tố Thời cơ và Thủ lĩnh qua thực tiễn các cuộc cải cách trong lịch sử trung – cận đại Việt Nam kể trên.
Có nhu cầu cải cách vì sự khủng hoảng xã hội toàn diện hay bộ phận. Nhưng cuộc cải cách chỉ có thể tiến hành và có kết quả khi có thời cơ. Cha con họ Khúc sở dĩ giành được quyền tự chủ và tiến hành cải cách vì lúc bấy giờ nhà Đường đã suy yếu dẫn đến tình trạng “ngũ đại thập quốc”. Lý Công Uẩn lấy được ngôi vì nhà Tiền Lê đến Lê Long Đĩnh đã quá suy nát, lòng dân oán hờn. Tương tự, Trần Thủ Độ lấy được ngôi cho nhà Trần và thực hiện cuộc cải cách vì nhà Lý đã suy tàn, xã hội khủng hoảng sâu sắc. Đến lượt Hồ Quý Ly, sở dĩ thâu tóm được quyền lực và thực hiện cải cách, rồi giành ngôi vua để tiếp tục đẩy mạnh cải cách vì cuộc khủng hoảng toàn diện của không chỉ cung đình triều Trần mà cả toàn xã hội cùng với nguy cơ bị ngoại xâm từ nhà Minh. Trường hợp cuộc cải cách của Lê Thánh Tông (Hậu Lê) hoặc Minh Mệnh (nhà Nguyễn) lại là do sự trì trệ của nền hành chính, kinh tế hoặc sự khủng hoảng cung đình buộc phải có nhu cầu đổi mới để phát triển của bản thân triều đại đó. Đối với Đào Duy Từ, thời cơ đến khi Chúa Nguyễn cần có tài năng của ông để xây dựng và phát triển Đàng Trong. Ông không những đã tận dụng được mà chính ông đã tự mình tạo ra thời cơ bằng cách nỗ lực tiếp cận Chúa Nguyễn để được thi triển tài năng. Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ và phong trào Duy Tân của 2 cụ Phan không được triển khai vì thời cơ chưa đến; các Vua Nguyễn thì bất lực, không dám cải cách, trong lúc có cản trở rất lớn là quân đội thực dân Pháp mặc dù nhu cầu cải cách rất lớn.
Yếu tố thứ hai quy định sự thành bại các cuộc cải cách chính là vai trò thủ lĩnh của người đứng đầu. Thủ lĩnh tài năng là người có tầm nhìn vừa xa, vừa rộng, nắm bắt được nhu cầu đổi mới, nắm bắt và tận dụng thời cơ một cách chính xác, mau lẹ. Trước hết, họ phải có tư tưởng, tư duy cải cách và phải có quyền lực, có sức mạnh để thực hiện cải cách theo đúng tư tưởng và mục tiêu đã xác định. Từ cha con họ Khúc đến Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Trịnh Cương, Minh Mệnh… tất cả đều phải có quyền lực, chưa có thì phải tạo ra, giành lấy để trở thành điều kiện cần cho cải cách. Tư tưởng cải cách của Đào Duy Từ được thực hiện là qua quyền lực của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Trong trường hợp này, nhà kiến trúc là Đào Duy Từ, người thực hiện là Chúa Nguyễn – người có thực quyền tối cao. Nếu không có quyền lực, nhà cải cách chỉ có thể dừng lại ở tầm mức nhà tư tưởng, ở vai trò thiết kế chứ không thể thi triển thành công. Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh là trong trường hợp này.
Để thành công, thủ lĩnh cải cách phải có lực lượng thực hiện và sự ủng hộ của đông đảo các tầng lớp xã hội. Muốn vậy, ngoài việc xác định mục tiêu đúng đắn nhằm hướng tới giải quyết được các mâu thuẫn xã hội, đáp ứng được các nhu cầu phát triển, thủ lĩnh phải có lộ trình cải cách hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của thể chế, của nền kinh tế – xã hội, của dân trí – văn hóa. Hồ Quý Ly có nhiều chính sách tiến bộ, nhưng có những chính sách chưa phù hợp với trình độ phát triển lúc bấy giờ, như đổi tiền giấy, nên không có kết quả như ý, thậm chí phản tác dụng.
Để thành công, thủ lĩnh phải kiên định mục tiêu, kể cả lúc phải điều chỉnh lộ trình, biện pháp hay gặp khó khăn, chống đối cũng không nản chí. Điều đó có thể thấy rất rõ ở Khúc Thừa Dụ – Khúc Hạo, ở Trần Thủ Độ, ở Lê Thánh Tông nhưng không có ở giai đoạn sau của Trịnh Cương khi ông này không kiềm chế được sở thích cá nhân mà làm lệch mục tiêu cải cách.
Điều cuối cùng, tất cả các cuộc cải cách thành công hay không, kết quả ít hay nhiều, phụ thuộc vào lòng dân. Ý tưởng cải cách hay, tiến bộ như Hồ Quý Ly nhưng không được lòng dân nên thất bại. Ngược lại, mới bước đầu giành quyền tự chủ (tương đối) nhưng với tư tưởng “Khoan, Giản, Thư, Lạc”, cha con họ Khúc đã thành công, đặt nền móng vững bền cho nền độc lập tự chủ của dân tộc.
Đổi mới là quy luật vận động của phát triển. Đổi mới như thế nào là bài toán khó luôn dành cho các thủ lĩnh và các nhà hoạch định chính sách. Nhìn lại lịch sử các cuộc cải cách vẫn thấy nhiều bài học quý cho hiện tại và tương lai.