Trong những ngày tháng 4 này, lòng chúng ta ai cũng hân hoan trào dâng những niềm vui bất tận khi nhớ về cách đây 47 năm với chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Đất nước ta đã thống nhất trọn vẹn, non sông ta thu về một mối, nhân dân hai miền Nam – Bắc sum họp một nhà thỏa lòng ước mong tâm nguyện của Bác Hồ kính yêu từ 6 năm về trước trong lời chúc tết Xuân Kỷ Dậu năm 1969 trước lúc Người đi xa: “Tiến lên! Chiến sỹ đồng bào/Bắc Nam sum họp, Xuân nào vui hơn”. Thưa Bác! Xuân 1975 là mùa Xuân vui nhất, đẹp nhất bởi lần đầu tiên sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, ngót trăm năm Pháp thuộc, hàng chục năm kháng chiến chống quân xâm lược dải đất hình chữ S thân yêu sạch bóng quân thù. Trong thời khắc lịch sử đó, hàng triệu người dân Việt Nam tự đáy lòng mình nhớ tới công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã đau đáu với khao khát niềm mong sao cho nước ta độc lập, dân ta được tự do không còn chia cắt.
Không phải ngẫu nhiên, cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975 được Bộ Chính trị đặt tên là chiến dịch Hồ Chí Minh và sau giải phóng toàn miền Nam, thành phố Sài Gòn được mang tên Bác Hồ kính yêu. Sinh thời Bác luôn hướng về miền Nam với nỗi nhớ da diết. Vườn Bác, cây vú sữa đồng bào miền Nam tặng vẫn tỏa bóng xanh tốt, quả ngọt trĩu cành. Hàng dừa mang bóng dáng miền Nam thân yêu vẫn nghiêng nghiêng bên ao cá “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà/Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Bác đặt bàn tay lên ngực trái: “Miền Nam trong trái tim tôi” và ao ước được vào thăm đồng bào miền Nam. Đường đến Sài Gòn ngày 30/4 vẫn “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng – Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng” (Phạm Tuyên). Đó cũng chính là con đường mà Bác đã khẳng định với phương hướng chiến lược được Người đúc kết trong 2 câu thơ chúc Tết như một lời tiên tri dự báo thật chính xác thiên tài: “Vì độc lập, vì tự do/Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”.
Giở lại những trang sử hào hùng ta thấy Bộ Chính trị đã chọn thời cơ chiến lược thật sáng suốt: Giữa năm 1974 so sánh lực lượng chiến trường miền Nam có lợi cho cách mạng, thời cơ đã xuất hiện, Bộ Chính trị họp vào tháng 10/1974 và tháng 1/1975 bàn kế hoạch giải phóng miền Nam. Đầu năm 1975 sau chiến thắng Phước Long, cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam mở những đòn tiến công chiến lược: Chiến dịch Tây Nguyên (Từ ngày 4 đến ngày 24/3); Chiến dịch Huế – Đà Nẵng (Từ ngày 25 đến ngày 29/3). Ngày 26/4 ta nổ súng mở màn chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
Với nhịp điệu dồn dập hối hả như mệnh lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận giải phóng miền Nam” nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Lịch sử sang Xuân, anh vào trận cuối cùng/Đại lộ Hồ Chí Minh thác réo quân đi cuồn cuộn/Anh đánh như sét nổ, trời rung/Anh chuyển như lũ dâng, bão cuốn”. Còn nhà thơ Hữu Thỉnh một người lính trực tiếp cầm súng theo đội hình xe tăng vào giải phóng Sài Gòn thì viết cụ thể hơn của trận đánh hiệp đồng binh chủng: “Thiết giáp cuốn say người/Lặng lẽ đặc công vào lót ổ/Giành giật những nhịp cầu/Xe pháo ầm ì vô tận nối nhau đi/Áo tân binh xanh đẫm bến phà”.
Có một điều trùng hợp thật ngẫu nhiên là cách đây 21 năm về trước ngày 7/5/1954, Tiểu đội trưởng Hoàng Đăng Vinh người bắt sống tướng Đờ Cát toàn thắng Điện Biên Phủ thì trưa ngày 30/4/1975 Đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thuận phất cao lá cờ giải phóng trên Dinh Độc Lập giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cả 2 người lính đều quê ở Thái Bình – cái tên gợi cho ta liên tưởng cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt hy sinh này với khát khao mong muốn: Đất nước thái bình muôn năm bền vững!
Đường đến Sài Gòn 30/4 là con đường của sức mạnh khát vọng hòa bình và thống nhất đất nước; Là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc trên 2 miền Nam – Bắc kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ bảo vệ miền Bắc chống chiến tranh leo thang phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ và chi viện chiến trường giải phóng miền Nam thành đồng Tổ quốc thân yêu. Đường lối kháng chiến do Đảng đề ra đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước cùng nhau đoàn kết phát huy sức mạnh tổng hợp vì lý tưởng cao đẹp mà lịch sử đặt ra bên cạnh được sự giúp đỡ chí tình của các nước bạn bè quốc tế. Sức mạnh đấu tranh nhờ đó được biểu hiện phong phú, nhân lên gấp bội, biến thành hành động thực tiễn qua nhiều phong trào thi đua yêu nước sôi nổi từ hậu phương đến tiền tuyến. Điển hình như các phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”; “Thóc không thiếu 1 cân, quân không thiếu 1 người”; “Xe chưa qua, nhà không tiếc”; Phong trào thanh niên “Ba sẵn sàng”, phụ nữ “Ba đảm đang”. Còn ở miền Nam thì “Ra ngõ gặp anh hùng”; “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”; hay câu nói nổi tiếng của nữ anh hùng Út Tịch: “Còn cái lai quần cũng đánh”.
Có thể nói sức mạnh của nhân dân là sức mạnh tổng hòa trong đó hình ảnh “Mẹ Việt Nam anh hùng” nổi bật lên như một tượng đài bất diệt, một biểu tượng cho ý chí bất khuất kiên cường, sự hy sinh thầm lặng lớn lao. Một mẹ Thứ (Quảng Nam) có 9 người con hy sinh. Bữa ăn, chồng bát cơm cúng mẹ bày ra như một chùm hoa trắng xếp thành vòng tròn “Các con không về mình mẹ lặng im”, ca sỹ đã nghẹn ngào khi hát “Bài ca không quên”. Quên sao được hình ảnh mẹ Suốt (Quảng Bình) chèo đò bằng “con đường trắng” trên sông Nhật Lệ khi mà bom đạn quân thù bủa vây dựng lên những cột sóng nhưng mũi thuyền của mẹ vẫn băng băng chỉ một con đường thẳng tiến chở bộ đội qua sông vào Nam đánh giặc.
Có những con đường huyền thoại để đi tới đại thắng mùa Xuân 1975 được xây bằng xương máu. Đó là con đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” ra đời vào tháng 5/1959 (Dịp sinh nhật Bác Hồ) mang phù hiệu Đoàn 559 là huyết mạch quan trọng để chi viện miền Nam. Còn có con đường mòn Hồ Chí Minh trên Biển Đông của đoàn tàu không số lặng lẽ mở tuyến vào Nam một cách sáng tạo và quả cảm. Các anh hy sinh hòa vào nước biển mặn mòi không một nấm mồ, xương cốt hóa thành san hô đỏ lấp lánh như phù sa của biển. Lại có những con đường địa đạo xuyên trong lòng đất mà có nhà thơ ví là “Mặt trời trong lòng đất” của đất thép Củ Chi (miền Nam) và Vĩnh Linh (miền Bắc) khiến quân thù ngạc nhiên và khiếp sợ khi sức sống chiến tranh nhân dân đội lên từ lòng đất mà không có vũ khí tối tân nào hủy diệt được. Đó cũng là con đường của nghĩa quân Lê Lợi “nếm mật, nằm gai” kháng chiến 10 năm hy sinh gian khổ để chiến thắng giặc Minh; Là con đường hành quân thần tốc của đại quân Vua Quang Trung từ Nam ra Bắc đánh bại quân Thanh; Là con đường vận tải xe đạp thồ, dùng sức người kéo pháo trong chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đến con đường những “Con rồng lửa” bắn cháy “Pháo đài bay B52” của “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Thủ đô ngàn năm văn hiến. Đó cũng là con đường đi từ các trận thắng Ấp Bắc đến Tết Mậu Thân 68 và Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào với 81 ngày đêm thành cổ Quảng Trị. Những người lính từ anh vệ quốc quân đến chiến sỹ giải phóng quân, từ mũ nan, dép lốp, áo trấn thủ đến mũ tai bèo, mũ sắt với các binh chủng hiện đại. Họ tiếp bước cha anh, tiếp bước thế hệ viết tiếp “Bài thơ báng súng”: “Con lớn lên viết tiếp thay cha/Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống/Người hôm nay viết tiếp người hôm qua” (Hoàng Trung Thông).
Và trong những ngày tháng chống dịch Covid-19 hào khí, hào hùng của đại thắng mùa Xuân 1975 vẫn còn nguyên vẹn. Khi mà cả nước “Chống dịch như chống giặc” khi mà “thần tốc, thần tốc hơn nữa” xuyên đêm, xuyên Tết phủ vắc-xin đẩy lùi dịch bệnh. Nắng tháng 4 – Nắng ngọt. Nắng vàng mật ong còn tươi sắc Xuân, nắng của ấm áp lòng người hân hoan chào đón kỷ niệm ngày 30/4 lịch sử./.