Nhân ngày Quốc tế người cao tuổi (1/10), Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Tâm (thôn Sơn Hạ, xã Thanh Lĩnh, huyện Thanh Chương) – một trong ba người được chọn in trong cuốn sách ảnh 11 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam được Unesco vinh danh, đã có những trải lòng về công việc, về cuộc đời của người phụ nữ thôn quê đầy nghị lực.
P.V: Thưa bà, ở tuổi 70 đã có cháu, có chắt nhưng tôi vẫn thấy bà rất trẻ, trẻ hơn cả lứa tuổi của mình. Chắc hẳn, tuổi trẻ của bà cũng có rất nhiều những ký ức đặc biệt?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Tôi sinh ra trong gia đình bần nông ở làng Thanh La (nay là xã Thanh Lĩnh, Thanh Chương). Mẹ tôi vất vả nhưng vẫn cố gắng cho tôi và các chị em được đi học. Năm lớp 8 khi đang học phổ thông thì Tỉnh đội Nghệ An về tuyển chọn văn công, tôi trúng tuyển và bỏ ngang việc học để đi phục vụ trong quân đội. Những năm từ 1969 – 1971, chiến tranh rất ác liệt. Để cổ vũ các lực lượng đang chiến đấu, bảo vệ ở các tuyến đường, đoàn văn công của chúng tôi đã tham gia biểu diễn tại nhiều địa phương trong tỉnh, trong đó nhiều nhất là biểu diễn cho các lực lượng thanh niên xung phong. Có khi, biểu diễn ngay trên đường hành quân. Thời điểm vào đoàn, tôi còn trẻ, chưa được hát chính nhưng đó là những ngày tháng không thể nào quên. Hoạt động được 3 năm do đoàn văn công của Tỉnh đội Nghệ An không thuộc biên chế của quân khu nên sau đó giải tán. Điều kiện chúng tôi khi đó, có thể được biên chế nhiều đơn vị khác nhưng vì hoàn cảnh gia đình, tôi xin về quê để được gần gia đình và chăm sóc mẹ.
P.V: “Tiếng hát át tiếng bom” là câu nói vẫn thường được nói đến trong thời chiến, ở nơi tiền tuyến. Vậy, với hậu phương thì như thế nào thưa bà?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Ngày còn nhỏ tôi đã được nghe mẹ hát, mẹ ru bằng các làn điệu của quê hương và dân ca ví, giặm xứ Nghệ đã thấm vào tôi từng ngày. Lớn lên, tôi thích và hát dân ca như là một lẽ tự nhiên vậy, như một năng khiếu bẩm sinh. Chính vì đó, nên sau khi đơn vị văn công của Tỉnh đội giải thể, về quê nhưng tôi vẫn hăng say tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ ở cơ sở. Đội văn nghệ của xã Thanh Liên cũng bắt đầu nhen nhóm và nổi tiếng từ ngày đó. Hàng ngày, chúng tôi đi làm ruộng, tối về lại tập hợp anh chị em trong xóm để luyện tập, biểu diễn. Sân khấu ngày xưa đơn giản lắm, có khi là những phuy dầu xếp lại với nhau rồi trải ván lên nhưng mọi người vẫn biểu diễn say sưa. Tiếng lành đồn xa, mỗi khi chúng tôi biểu diễn thì người dân ở các xã khác đến xem rất đông. Sau đó, chúng tôi còn đi biểu diễn ở nhiều xã khác với nhiều vở diễn nổi tiếng như vở Tần Thị Hương Liên, vở cô gái xứ Nghệ… Từ đấy, tôi đã ngấm dân ca mà không qua một trường lớp nào. Những vở diễn ngày đó luôn truyền tải những thông tin để đem đến niềm vui trong lao động, niềm tin về chiến thắng, về ngày hòa bình, thống nhất đất nước.
P.V: Ngày đó, bà trẻ, đẹp và có giọng hát trời phú, hẳn sẽ có rất nhiều người theo đuổi. Nhưng cuộc sống không dễ dàng khi chồng bà mất sớm và một mình bà phải nuôi 3 con nhỏ?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Ngoài 20 tuổi, tôi lấy chồng nhưng vì hoàn cảnh gia đình nhà chỉ có con gái nên mẹ tôi luôn muốn tôi lấy người cùng quê, có thể ở rể trong gia đình.
Chồng tôi là bộ đội, gọi là ở rể nhưng anh biền biệt. Hết chiến tranh, giải phóng miền Nam anh lại tiếp tục điều chuyển công tác lên Hoàng Liên Sơn. Lấy nhau 7, 8 năm có với nhau mấy mặt con nhưng thực chất thời gian hai vợ chồng ở gần nhau vẻn vẹn có 60 ngày. Năm 1979, tôi nhận được tin chồng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ tại chiến trường biên giới phía Bắc. Lúc đó, hai con tôi còn nhỏ, đứa thứ ba thì chỉ mới có bầu được 3 tháng, tôi còn chưa kịp báo với chồng. Nhận được tin chồng mất, như sét đánh ngang tai, mẹ con tôi thực sự không biết bấu víu vào đâu.
Thời điểm chồng tôi hy sinh, tôi đang là cô giáo dạy mầm non ở làng. Nhưng rồi, đồng lương quá ít, trong khi tôi còn 3 con nhỏ nên buộc phải bỏ nghề. Ngày đầu, mẹ con tôi có một khoản tiền nhỏ là tiền tử tuất của chồng, tôi gom vào để mua một con bò. Hai năm sau, nó sinh thêm 2 con me và đó là nguồn vốn liếng đầu tiên của gia đình. Nhờ đồng vốn đầu tiên này, tôi mạnh dạn mua được căn nhà gỗ, thay cho căn nhà tre xập xệ. Sau này, tôi lại mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đi buôn dép tông, buôn vải. Rồi tôi nhận đi hát, đi biểu diễn để mong được đổi gạo, đổi lương thực. Có thời điểm, tôi nghĩ mình như con đàn ông, tự bươn chải, tự xây nhà và tự quyết định mọi việc.
Trong nỗi khổ cùng cực, đôi khi tưởng chừng không thể qua nổi khó khăn, hoạn nạn tôi lại nghĩ đến con và chỉ suy nghĩ đơn giản phải làm sao để con không phải khổ, để các con được học hành. Tôi phấn đấu không mệt mỏi, phấn đấu hết tuổi thanh xuân. Thậm chí tôi không có thời gian để tủi thân, yếu lòng. Ngược lại lúc nào tôi cũng thấy mình mạnh mẽ. May mắn là trời thương nên công việc buôn bán của tôi thuận lợi, mẹ con từng bước vượt qua khó khăn và ổn định cuộc sống. Đến nay thì các con tôi đều đã ổn định cuộc sống, có của ăn, của để, tôi đã có cháu nội, cháu ngoại và năm nay 70 tuổi đã có chắt ngoại đầu tiên. Tôi cũng rất hạnh phúc bởi các con tôi đều có hiếu. Thường ngày tôi vẫn dạy các con, sống có đức để có hậu, mỗi ngày hãy nhìn về những việc mình đã làm, nếu sai thì phải sửa, sống thật thà, chăm chỉ lao động.
P.V: 27 tuổi, đã mẹ góa con côi và bà đã mất hơn nửa đời người để lo cho con, cho cháu. Tôi tự hỏi, trong những ngày tháng khó khăn như vậy, bà dành thời gian đâu cho âm nhạc, cho dân ca ví, giặm xứ Nghệ và bà nuôi dưỡng niềm đam mê của mình như thế nào?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Tôi cũng không lý giải được. Quả thực, những năm nuôi con khôn lớn, cuộc sống của chúng tôi có thời điểm rất khó khăn. Nhưng dù vất vả đến đâu, chỉ cần có một hội diễn, có một chương trình nào mà xã, huyện tổ chức tôi đều hăng hái tham gia nhiệt tình.
Không chỉ hát, đến năm 2000 tôi bắt đầu viết lời mới trên các làn điệu dân ca cũ. Tôi còn viết kịch bản, dàn dựng chương trình cho hàng chục vở diễn. Ngay cả bây giờ, đã ngoài 70 tuổi nhưng gần như tháng nào tôi cũng dựng 1, 2 vở và đảm nhiệm toàn bộ phần kịch bản. Bài hát đầu tiên tôi vẫn nhớ là bài “Ca ngợi người phụ nữ Việt Nam” nhân Kỷ niệm 90 năm ngày Phụ nữ quốc tế: “Cả nước hôm nay tưng bừng sôi nổi/Phụ nữ Việt Nam phấn khởi vui mừng/Cờ sao đỏ rực cơ hồng/Liên hoan phấn khởi, vui mừng biết bao…”.
P.V: Bà chưa từng học qua một trường lớp nào nhưng đã viết hàng chục vở diễn và đã dành rất nhiều giải thưởng ở nhiều hội diễn khác nhau. Có khó khăn nào không với một người “tay ngang”như vậy?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Không, tôi không gặp khó khăn nào. Mỗi khi nhận được một chương trình, một yêu cầu tôi chỉ cần nghe chủ đề là có thể dễ dàng viết được một kịch bản, như là bản năng vậy. Đến giờ tôi cũng không nhớ mình đã viết được bao nhiêu tác phẩm nữa, gần đây nhất là viết tiểu phẩm cho cuộc thi Nhà nông đua tài, viết về vấn đề Kế hoạch hóa gia đình, viết về xây dựng Nông thôn mới, phòng chống ma túy, an toàn giao thông, viết về vấn đề hòa giải viên giỏi.
Tôi nghĩ mình may mắn có năng khiếu và gặp được những người thầy lớn của mình đó là mẹ, đó là Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Trọng Đổng. Chính họ là người đã giúp tôi những nền tảng đầu tiên để tôi có thể hiểu tường tận, nhuần nhuyễn các làn điệu dân ca ví, giặm xứ Nghệ và sau đó tôi chỉ cần dựa trên những làn điệu có sẵn để lồng ghép các nội dung tuyên truyền. Muốn viết hay, thì người viết cũng cần phải có cảm xúc, đặt mình vào trong từng hoàn cảnh để có thể truyền tải được hết ý tưởng.
P.V: Năm 2019, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú. Điều này có ý nghĩa thế nào với bà?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Tôi gắn bó với dân ca ví, giặm xứ Nghệ từ rất sớm và đã có trên 40 năm gắn bó với câu hát quê hương. Chính vì thế, so với nhiều bạn bè khác, tôi được công nhận Nghệ nhân ưu tú muộn hơn. Điều này có nhiều lý do nhưng dù với bất cứ nguyên nhân gì thì tôi thấy rất hạnh phúc vì đã được công nhận danh hiệu này. Bộ hồ sơ để được công nhận của tôi cũng được đánh giá là dày dặn vì gần như tôi có đầy đủ các giải thưởng. Trước đó, từ năm 2005, tôi cũng đã được Huy chương vì sự nghiệp văn hóa của Bộ Văn hóa Thông tin trao tặng…
P.V: Cùng với Nghệ sỹ nhân dân Hồng Lựu, Nghệ nhân ưu tú Trọng Đổng, bà là 1 trong 3 người được chọn in trong cuốn sách ảnh vinh danh 11 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam được Unesco vinh danh. Vừa sưu tầm, biểu diễn, sáng tác, truyền nghề, điều gì trong những công việc bà đã làm là tâm huyết nhất?
NNƯT Nguyễn Thị Tâm: Không chỉ riêng tôi mà tất cả những ai biết hát dân ca ví, giặm đều phải biết truyền dạy lại cho thế hệ trẻ để gìn giữ lại di sản của cha ông ta từ ngày xưa để lại. Cá nhân tôi đã từng đi dạy ở trường mầm non, trường tiểu học. Mỗi lúc đứng trên bục giảng truyền dạy cho các em nhỏ mang lại cho tôi cái cảm giác rất khó tả, lâng lâng vui sướng lắm, nhất là khi các em hát đúng, hát hay tôi cảm nhận được rằng mình đã thành công.
Trong những việc mà tôi đã làm, điều mà tôi trăn trở nhất đó là phải gìn giữ được truyền thống của ông cha ta để lại là hát dân ca, hát ví giặm. Vì vậy tâm nguyện của tôi là làm sao gìn giữ được truyền thống đó và muốn vậy không những bản thân tôi mà tất cả mọi người đều có trách nhiệm lan tỏa ví, giặm đến muôn thế hệ sau và đó là cách chúng ta bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể mà chúng ta vinh dự được Unesco công nhận.
P.V: Xin cảm ơn bà đã tham gia trò chuyện!