Do phong tục, tập quán và quan niệm về hôn nhân ăn sâu, bám rễ vào nếp nghĩ qua nhiều thế hệ, nên dù các cấp, ngành đã triển khai nhiều giải pháp; nhưng sau những bản làng mờ sương ở miền tây xứ Nghệ những cuộc hôn nhân bất hợp pháp giữa các ông bố, bà mẹ “trẻ con” vẫn diễn ra…
tuổi, sau lễ cưới hai bên họ hàng tổ chức, Và Y Mại bước chân về nhà chồng mà chưa đăng ký kết hôn. Năm nay mới 16 trăng tròn nhưng cuộc sống vất vả khiến Y Mại trông già dặn hẳn so với tuổi. Ngồi thẫn thờ ở bậc cửa ôm đứa con nhỏ, Y Mại lí nhí thổ lộ: “Em cũng muốn đi học, nhưng con gái em còn nhỏ, bây giờ một chữ cũng không biết, nghe người ta nói cũng không hiểu, sau này nếu có lớp dạy xóa mù chữ em cũng muốn được đi học lại…”.
Và Y Mại hiện sinh sống tại bản Phù Khả 1, xã Na Ngoi, huyện Kỳ Sơn. Y Mại chỉ là một trong rất nhiều những trường hợp hôn nhân “ trẻ con”, hình thành theo kiểu cưới trước, khi nào đủ tuổi quy định thì đi đăng ký kết hôn vẫn diễn ra ở nhiều địa bàn ở miền Tây xứ Nghệ.
Huyện miền núi Kỳ Sơn – quê hương của Và Y Mại, chủ yếu tập trung đông đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó dân tộc Mông (27.530 người, chiếm 35,37%), Thái (20.912 người, chiếm 26,87%), Khơ Mú (27.731 người, chiếm 35,6%)…
Mặc dù được cấp ủy, chính quyền đã quan tâm chỉ đạo công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nhưng tình trạng tảo hôn vẫn còn xảy ra khá phổ biến. Như ở xã Huồi Tụ – cách trung tâm huyện gần 23km, trong năm 2017, toàn xã có 23 cặp tảo hôn đều là đồng bào Mông, 6 tháng đầu năm 2018 có 24 trường hợp. Xã Mường Lống năm 2017 có 37 cặp, 6 tháng đầu năm 2018 có 11 cặp… trong đó có những trường hợp mới sinh năm 2002.
Trao đổi về vấn đề này, bà Cụt Thị Hợi – Trưởng phòng Dân tộc huyện Kỳ Sơn cho hay: Nạn tảo hôn thường tập trung nhiều ở đồng bào Mông với phong tục lấy vợ, lấy chồng khá sớm, chủ yếu rơi vào học sinh cấp hai, và các “cặp đôi trẻ con” thường làm lễ cưới vào dịp tết về.
Rời Kỳ Sơn, chúng tôi đến xã biên giới Nhôn Mai, huyện Tương Dương đúng dịp bà con thu hoạch vụ mùa. Gặp Bí thư Chi bộ bản Huồi Cọ Và Ca Sua, hỏi ông “Trai, gái bản ta có còn kết hôn sớm không?”. Thoáng phút trầm ngâm, ông trả lời “Vẫn có đấy”. Qua mấy ngày lưu lại xã biên giới Nhôn Mai tìm hiểu thực tế về nạn tảo hôn và suy nghĩ của cộng đồng nơi đây về vấn đề này, chúng tôi không khỏi băn khoăn, duy dứt bởi cái sự “lực bất tòng tâm” của nhiều người, trong đó có cả cán bộ chính quyền lẫn các bậc phụ huynh của những cặp “vợ chồng trẻ con”.
Cũng vì thế mà mặc dù cô con gái Và Y Cừ sinh ngày 08/7/2005, chưa đủ điều kiện kết hôn theo luật định nhưng ông Và Chứ Già ở bản Phá Mựt xã Nhôn Mai vẫn tổ chức lễ cưới cho con. Với hành vi này, ngày 27/3/2018, ông Và Chứ Già đã bị UBND xã Nhôn Mai lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp. Đồng thời buộc con gái ông Già là Và Y Cừ và con rể là Xồng Bá Thò thường trú tại xã Tri Lễ, huyện Quế Phong chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng. Tương tự là trường hợp ông Lô Văn Nhất, ở bản Nhôn Mai bị chính quyền địa phương lập biên bản xử lý vi phạm hành chính khi tổ chức cưới cho con gái là Lô Thị Dùi – sinh ngày 27/7/2001 tại thời điểm con gái ông chưa đủ tuổi kết hôn.
Ông Xồng Bá Bì – cán bộ Tư pháp xã Nhôn Mai thống kê, năm 2017 toàn xã Nhôn Mai có 14 trường hợp tảo hôn. Còn năm 2018 (chỉ tính từ ngày 01/01-18/07/2018) ở xã biên giới này đã có18 cặp nam, nữ ở độ tuổi từ 14-16 tuổi tảo hôn. Chủ yếu tập trung ở các bản Phá Mựt, Huồi Măn, Huồi Cọ…
Chỉ tính riêng trong năm 2017, trên địa bàn huyện Tương Dương có 98 cặp tảo hôn, trong đó dân tộc Mông 43 cặp; Thái 42 cặp, Khơ mú 11 cặp. Tại huyện Con Cuông, theo số liệu thống kê riêng 6 tháng đầu năm 2018 có 14 trường hợp tảo hôn, chủ yếu là tộc người Đan Lai và dân tộc Thái ở các xã vùng sâu, vùng xa, tập trung nhiều ở 2 xã biên giới Môn Sơn và Châu Khê…
Thông thường khi tổ chức cưới, những cặp “vợ chồng trẻ con” không đến Tư pháp xã đăng ký kết hôn mà tự chung sống với nhau khi đến tuổi mới đến đăng ký. Mặc dù có nhiều trường hợp cấp ủy, chính quyền đã kịp thời phát hiện và trực tiếp đến tận nhà (có khi phải đi bộ mất mấy tiếng đồng hồ mới đến tận nơi) nhắc nhở, lập biên bản xử lý vi phạm hành chính nhưng rồi “đâu lại vào đấy” bởi tư tưởng “không cho ta cũng lấy” đã ăn sâu vào suy nghĩ của những đứa trẻ và phần nào đó còn có sự đồng tình của cộng đồng, gia đình nơi con trẻ sinh sống.
Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định, nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b ) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 2 Điều 5 của Luật này.
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Nhắc đến câu chuyện tảo hôn, chúng tôi cứ ám ảnh mãi về đôi mắt buồn xa xăm của cô bé Và Y Mại ở Pù Khả 1 xã Na Ngoi, Kỳ Sơn. Học chưa xong lớp 4 thì bố Y Mại mất sớm, nhà lại khó khăn nên em phải bỏ học ở nhà.
Lấy chồng từ thuở 13 – ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới”, cuộc sống của gia đình Y Mại gặp phải muôn vàn khó khăn, vừa thiếu vốn, lại không có kinh nghiệm trong việc chăn nuôi sản xuất nông nghiệp nên thu nhập bấp bênh. Mỗi mùa lúa rẫy, nếu thời tiết thuận lợi thì thu hoạch được 30 đến 40 bì lúa, năm mất mùa chỉ được hơn 10 bì. Mọi việc lớn, bé, nặng nhọc trong gia đình đều đè nặng lên đôi vai của người mẹ trẻ khi chưa bước qua tuổi 16.
Những trường hợp như Y Mại khi biết được cái khổ của việc lấy chồng sớm thì cũng đã muộn màng.
Ông Và Bá Tồng, trưởng bản Phù Khả 1, xã Na Ngoi, Kỳ Sơn, cho hay: “Bản Phù Khả có 82 hộ dân, trong đó có các cặp vợ chồng trẻ tuổi 13, 14 đã lấy nhau và tách ra ở riêng thì có đến 15 hộ. Nguyên nhân do không chịu đi học, một phần vì gia đình khó khăn nên bỏ về ở nhà, thấy có bạn lấy chồng thì cũng lấy theo, không nghĩ cuộc sống sau khi lập gia đình sẽ vất vả như thế nào… Dân bản khổ, chính quyền cũng đau đầu lắm”.
Thực tế cho thấy, hiếm có cặp “vợ chồng trẻ con” nào thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói, thất học, chưa kể gặp phải các vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ xã hội. Có không ít trường hợp do kết hôn sớm, tuổi còn trẻ nhưng đã một nách 3-4 đứa con. Ví như trường hợp Lầu Y Lỳ ở Nậm Cắn (Kỳ Sơn) lấy chồng năm 15 tuổi, năm nay mới 20 tuổi đã một nách 4 con. Bà Xồng Y Xồng ở bản Ải Khe (xã Mường Ải, Kỳ Sơn) mới 13 tuổi đã có 1 con, năm nay 50 tuổi bà Y Xồng đã có 10 đứa con, đứa nhỏ nhất mới 16 tháng tuổi, trong khi con đầu của bà cũng đã lập gia đình…
Nói về nguyên nhân của nạn tảo hôn, ông Hoàng Văn Hiếu – Trưởng phòng Tư pháp Kỳ Sơn cho biết: Là do cách nghĩ, thói quen và phong tục còn lạc hậu, trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế của đồng bào các dân tộc. Bên cạnh đó, các chế tài xử lý vi phạm trong hôn nhân chưa được thực hiện nghiêm và triệt để, mức xử phạt hành chính còn nhẹ (trong tầm khoảng 500.000 – 1.000.000 đồng nên chưa đủ sức răn đe). Mặt khác, để lập biên bản xử phạt hành chính cũng không dễ bởi tại các thôn bản đều có mối quan hệ họ hàng thân thiết nên có sự “nể nang”, bao che, làm ngơ. Chưa kể các hương ước, quy ước ở thôn, bản chưa được đổi mới kịp thời phù hợp với tình hình thực tế ở cơ sở cũng là một hạn chế đối với công tác phòng chống tảo hôn.
“Do điều kiện kinh tế khó khăn nên hiện tượng học sinh bỏ học sớm vẫn còn xảy ra hoặc học xong không tìm được việc làm phù hợp dẫn đến tình trạng kết hôn sớm trong đồng bào dân tộc thiểu số”, ông Xồng Bá Bì – Cán bộ Tư pháp xã Nhôn Mai (Tương Dương) cho hay.
Còn theo ông Quang Văn Đặng – Trưởng phòng Dân tộc huyện Tương Dương, sở dĩ chưa ngăn chặn được nạn tảo hôn có một phần nguyên nhân từ công tác tuyên truyền chưa đồng bộ, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cấp, các ngành, lực lượng liên quan. Các cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở chưa vào cuộc quyết liệt, nghiêm khắc nhắc nhở và xử lý các trường hợp sai phạm (ví dụ như cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã vẫn đi dự đám cưới các cặp tảo hôn; hoặc hợp thức hóa kết hôn sau tảo hôn…).
Bên cạnh đó, địa bàn miền núi rộng, dân cư thưa thớt, đi lại trắc trở, công tác tuyên truyền vẫn chủ yếu dựa vào đội ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở nhưng trình độ, năng lực của đội ngũ này còn nhiều hạn chế. Thêm vào đó nạn tảo hôn thường rơi vào các dân tộc Mông, Khơ mú, Ơ đu… phụ nữ phần lớn không biết tiếng phổ thông, cán bộ làm công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật lại không thạo tiếng dân tộc phải thông qua “thông dịch viên” nên hiệu quả tuyên truyền chưa cao.
Trên cơ sở Quyết định số 498/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025”. UBND tỉnh Nghệ An ban hành Kế hoạch số 599/KH-UBND về “Kế hoạch thực hiện Đề án Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh”, giao Ban Dân tộc tỉnh chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan triển khai thực hiện.
Trong 2 năm 2016-2017, Ban Dân tộc tỉnh đã tham mưu xây dựng 9 mô hình điểm đối với địa bàn vùng dân tộc thiểu số có nguy cơ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống cao ở các xã Nậm Cắn, Huồi Tụ, Trường THPT Kỳ Sơn (huyện Kỳ Sơn); xã Tri Lễ, Nậm Nhoóng (huyện Quế Phong), xã Nhôn Mai, Tam Hợp (huyện Tương Dương). Năm 2018 mở rộng thêm 3 mô hình ở xã Mai Sơn (Tương Dương); Mường Lống (Kỳ Sơn), Môn Sơn (Con Cuông).
Theo ông Trần Nhật Phương – Trưởng phòng Chính sách dân tộc (Ban Dân tộc tỉnh): Mục tiêu của việc xây dựng mô hình điểm là tạo bước chuyển về nhận thức từ trong đội ngũ cán bộ cấp ủy, chính quyền địa phương cho đến người dân vùng dân tộc thiểu số. Vì vậy, công tác tuyên truyền được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, do đặc thù miền núi Nghệ An có diện tích rộng ( 13.745 km2), có 27 xã giáp biên giới Việt Lào với 419,5 km đường biên, đồng bào dân tộc thiểu số đông (466.137 người, chiếm 16% dân số toàn tỉnh và 39% dân số địa bàn miền núi) với nhiều thành phần dân tộc như Thái, Mông, Khơ mú, Thổ, Ơ đu… Do vậy, công tác tuyên truyền vẫn chủ yếu dựa vào đội ngũ tuyên truyền viên ở cơ sở. Đây chính là cầu nối thông tin trực tiếp để đưa kiến thức pháp luật đến với người dân.
Theo Trưởng phòng Tư pháp huyện Kỳ Sơn, ông Hoàng Văn Hiếu: để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tảo hôn thì “năng lực cán bộ là quan trọng nhất”. Do vậy cần quan tâm đến công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ tuyên truyền viên thôn bản, già làng trưởng bản, người có uy tín ở các xã biên giới. Bên cạnh đó, tích cực đổi mới nội dung hình thức tuyên truyền theo kiểu “cầm tay chỉ việc”, có hình ảnh minh họa, câu từ ngắn gọn để bà con dễ nhớ, dễ tiếp thu để nâng cao nhận thức cho người dân.
Ông Quang Văn Đặng – Trưởng phòng dân tộc huyện Tương Dương cho rằng “Để giảm thiểu nạn tảo hôn “các ngành liên quan cần phải tăng cường công tác giáo dục giới tính ở trường học, đồng thời làm tốt công tác định hướng phân luồng học nghề. Vì thực tế cho thấy, những trường hợp tảo hôn chủ yếu là các em học sinh cấp 2 bỏ học, các em bỏ học càng nhiều thì tỷ lệ tảo hôn càng cao”.
Bên cạnh thực hiện nghiêm các chế tài pháp luật cần phải đưa tiêu chí nói không với tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống vào hương ước các dòng họ và quy ước thôn, bản cũng như chỉ tiêu xếp loại thi đua của cấp ủy, chính quyền để nâng cao trách nhiệm trong công tác phòng, chống vấn nạn này.
Theo bà Hờ Y Mại – Phó Chủ tịch Hội LHPN huyện Kỳ Sơn: Hiện nay, một số cán bộ, đảng viên chưa thật sự gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật về hôn nhân gia đình, con em cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ chủ chốt cấp xã, bản vẫn vi phạm tảo hôn, tạo tiền lệ xấu trong cộng đồng. Do vậy, cấp ủy, chính quyền cần có giải pháp xử lý nghiêm đối với trường hợp cán bộ, đảng viên tổ chức cưới cho con em chưa đủ tuổi kết hôn để làm gương cho người dân.
Còn chúng tôi, từ những điều “ mắt thấy, tai nghe”, lại thấy rằng, để không còn những “lời ru buồn” của các ông bố, bà mẹ “trẻ con” sau những bản làng mờ sương, cần có sự phối hợp chặt chẽ, vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị đưa công tác tuyên truyền tập trung “đúng và trúng” đối tượng, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần nâng cao nhận thức, từng bước thay đổi hành vi, xóa bỏ nạn tảo hôn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đây cũng là một trong những giải pháp quan trọng để xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số.