Thời điểm Trung Quốc tấn công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân. Trong khi đó, quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người, gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
“4 giờ 17 phút ngày 17/2/1979, giữa lúc nhân dân Hoàng Liên Sơn đang ngủ ngon thì bất thình lình hàng loạt đạn đại bác từ phía Bắc dội tới làm khắp biên giới bốc lửa ngùn ngụt…”, đó là một phần trong bản tin được báo Quân đội nhân dân phát đi tròn 40 năm trước. Bản tin tường thuật lại thời điểm mở màn cho cuộc chiến khốc liệt kéo dài 30 ngày.
Theo các tài liệu lịch sử, quan hệ Việt – Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968. Đặc biệt là sau năm 1972, khi Tổng thống Mỹ Nixon tới thăm Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. Tháng 5/1975, Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu rồi tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Khi Việt Nam vừa thống nhất đất nước, những người lính còn chưa kịp hưởng một ngày yên vui đã phải khoác lên vai cây súng để bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 1/1979, quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ cho Việt Nam.
Không lâu sau tuyên bố ấy, rạng sáng 17/2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới của Việt Nam từ Lai Châu đến Quảng Ninh. Lúc này, phần lớn bộ đội chủ lực của Việt Nam vẫn đang ở biên giới phía Nam, giúp nhân dân Campuchia chống lại Khmer Đỏ.
Theo Niên giám châu Á năm 1980, thời điểm Trung Quốc tấn công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân. Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người – gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc dù chênh lệch lớn về quân số nhưng Trung Quốc đã vấp phải sự kháng cự dũng cảm của quân và dân ta. Trải qua 30 ngày chiến đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang tại chỗ và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều đánh bại “chiến thuật biển người, thọc sâu phá hoại” của quân Trung Quốc.
Cụ thể, tại Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn tuyến 1 của hai quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới từ phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai, bắn pháo dữ dội vào thị xã này và vùng lân cận. Quân Trung Quốc cũng đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã. Dân quân, tự vệ cùng các lực lượng vũ trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung Quốc không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.
Trong khi đó, tại Cao Bằng, hai quân đoàn của Trung Quốc tạo nên hai cánh quân lớn tiến đánh thị xã Cao Bằng. Tuy nhiên, cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng đánh chặn. 3 ngày đầu, quân Trung Quốc tại đây đã bị thiệt hại 4 tiểu đoàn, bị phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và buộc phải đưa lực lượng dự bị vào vòng chiến….
Trên mặt trận Lạng Sơn, các cánh quân lớn của Trung Quốc chia làm nhiều mũi đánh vào khu vực thị trấn Đồng Đăng. Dù bị bất ngờ song chỉ với lực lượng dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh. Quân và dân Lạng Sơn bám trụ trận địa, đánh trả mạnh mẽ các mũi tấn công phía trước, phía sau của địch, buộc quân xâm lược phải co về đối phó và bị đẩy lùi ở nhiều mặt trận….
Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, cùng một lúc quân Trung Quốc chia các hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến công theo đường 10 vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng vũ trang địa phương. Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ. Trong khi đó, ở Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các đồn chốt biên phòng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang, dân quân, bộ đội các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân tộc. Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh tiến công vào Pò Hèn, Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19 và 20/2, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày hôm đó, Trung Quốc tuyên bố “hoàn thành mục tiêu chiến tranh” và rút quân. Các nhà quan sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động rất khó, có thể gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt Nam phản công. Tuy nhiên, ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân. Tuy nhiên, Trung Quốc đã không rút hết quân như tuyên bố vào ngày 18/3. Vì thế, suốt gần 10 năm sau đó, biên giới phía Bắc vẫn thường xuyên xảy ra đụng độ quân sự.
Theo số liệu công bố, trong cuộc chiến này, 62.500 lính Trung Quốc (hơn 1/10 tổng số quân được huy động) bị hạ. Hơn một nửa xe quân sự trong đó có 220 xe tăng, xe bọc thép bị bắn cháy, hơn 100 đại bác và súng cối hạng nặng bị phá hủy….
Tuy nhiên, cuộc xâm chiếm của Trung Quốc cũng gây ra những tổn thất nặng nề cho Việt Nam: một số đô thị bị hủy diệt hoàn toàn, hàng chục nghìn người thiệt mạng, trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản….
nguyen duc phuc
lich su ngan nam dung nuoc va giu nuoc cua ong ba ta,la truyen thong yeu nuoc,can duoc tiep noi…khong chiu khuat phuc truoc ke thu co the va luc du manh gap boi quan ta xuat phat tu long yeu nuoc thuong noi bao the he da tien dua nguoi than thich nhat len duong giap mat ke thu,khong so hy sinh gian kho,khong tro ve nam lai tren manh dat gin giu tung tac dat ong,ba ta de lai,de biet on nhung nguoi da hy sinh vi doc lap cua to quoc…nhan dan ta hay cunh nhau doan ket mot long trung thanh voi dang quyet hy hy sinh vi to quoc.