Nghệ An nổi tiếng với rất nhiều loại đặc sản ở khắp các vùng, miền. Tuy nhiên, việc biến đặc sản trở thành hàng hóa, góp phần phát triển sinh kế bền vững cho người dân bản địa thì vẫn đang dừng lại ở dạng tiềm năng…
_________________
Nghệ An với nhiều địa hình và tiểu vùng khí hậu khác nhau, nhiều dân tộc khác nhau sinh sống là môi trường lý tưởng cho sự đa dạng sinh học và đa dạng văn hóa. Từ sự đa dạng đó đã sinh ra không biết bao nhiêu là đặc sản, những sản phẩm không chỉ phản ánh sự độc đáo của vùng đất mà còn kết tinh sự độc đáo của văn hóa, của con người nơi đây. Từ bao đời nay danh tiếng của những sản vật này không còn dừng lại trong tỉnh, mà đã bay xa đến các vùng, miền khác trong và ngoài nước.
Về cây đặc sản, hầu như không ai lại không biết những sản vật như: khoai sọ Kỳ Sơn; xoài Tương Dương; quế Quỳ; cây lùng Quỳ Châu; trám đen Thanh Chương; các loài dược liệu; các giống dưa rẫy, lúa nương…
Về vật nuôi, những bò Mông; trâu Na Hỷ; lợn đen; gà ác, vịt bầu Quỳ; cánh kiến… cũng nổi tiếng từ lâu. Bên cạnh đó, những sản phẩm qua bàn tay chế biến của con người như thổ cẩm, hương trầm, các bài thuốc nam bí truyền; sản phẩm nghề rèn của người Mông, nghề đan lát của người Thái… cũng là những sản phẩm đặc sắc, không chỉ được sử dụng trong đời sống hàng ngày của đồng bào các dân tộc, mà còn là những sản phẩm được ưa chuộng, thậm chí được săn lùng của những người ở nhiều nơi trong và ngoài nước.
Từ hàng chục năm nay, nhất là những năm gần đây khi giao thương ngày càng thuận lợi và mở rộng, các sản phẩm đặc sản nói trên càng có cơ hội tốt để dần xâm nhập thị trường. Tuy nhiên, trước nhu cầu ngày càng lớn của thị trường, các đặc sản vẫn đang là đặc sản, với tất cả sự khan hiếm của nó. Hai chữ hàng hóa đối với chúng vẫn chỉ ở dạng tiềm năng là chủ yếu.
Đó là chưa kể hàng chục năm qua xu hướng ồ ạt đưa các giống cây, con mới vào miền Tây đã và đang lấn át xu hướng phục hồi và phát triển cây con bản địa truyền thống. Các giống lúa lai (chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc) ồ ạt xâm nhập miền Tây, đẩy các giống lúa nương bản địa dần vào… ký ức.
Tương tự chương trình shind hóa đàn bò cũng đã nhọc nhằn leo dốc lên núi, mà quên mất những trâu Na Hỷ, hay bò Mông to lớn, lực lưỡng, phẩm cấp thịt ngon, thích nghi với môi trường bản địa đã hàng trăm năm. Rồi các giống xoài lai tạp cũng đã làm hỏng giống xoài Tương Dương danh tiếng. Vài chục năm trước cây quế lên ngôi. Nhưng, trong cao trào quế ấy, người ta không nhân giống cây quế Quỳ bản địa lừng danh, mà ồ ạt nhập giống quế từ nơi khác về. Kết quả là mấy năm gần đây người dân đang chặt quế để trồng keo lai. Không chỉ có thế, chính giống quế ngoại lai này đã làm mất uy tín danh tiếng của quế Quỳ.
Không phủ nhận trong rất nhiều giống cây, con mới được đưa lên miền Tây cũng đã có những giống thích nghi và trở thànhh hàng hóa, như chè Tuyết Shan ở Kỳ Sơn; ngô lai; lúa lai; keo lai… Nhưng, trong lúc mọi nguồn lực hầu như dành cho xu hướng đó, thì rõ ràng cơ hội để cho các đặc sản và sản phẩm truyền thống của các địa phương trở thành hàng hóa hầu như không có.
Mấy năm gần đây đã có một xu hướng đầu tư âm thầm, nhưng kiên trì để dần biến những sản phẩm đặc sản địa phương thành hàng hóa.
Hương trầm Quỳ Châu là một ví dụ. Nhận thấy giá trị và tiềm năng thương mại của mặt hàng truyền thống này, liên tục mấy năm nay địa phương và các ngành công thương, nông nghiệp, khoa học công nghệ đã có những đầu tư thích hợp cho nó. Riêng Sở KH&CN sau dự án trồng cây rễ hương dưới tán rừng thành công, đã đầu tư tiếp đề tài nhân giống cây rễ hương bằng hom. Hai công trình này đã góp phần đắc lực giải quyết vấn đề nguyên liệu cho sản xuất hương. Bên cạnh đó, Sở KH&CN và Sở Công Thương cũng đã hỗ trợ địa phương xây dựng và phát triển thương hiệu Hương trầm Quỳ Châu. Đồng thời hiện đang tiếp tục hỗ trợ cơ khí hóa và đa dạng hóa sản phẩm hương. Những cố gắng lồng ghép, hợp lực các nguồn đầu tư đồng bộ và liên tục đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của hương trầm Quỳ Châu, biến nó từ một sản phẩm truyền thống quý hiếm trở thành một sản phẩm hàng hóa có chất lượng cao, khối lượng lớn và thương hiệu mạnh.
Tương tự là câu chuyện con vịt bầu Quỳ, từ nguy cơ mất giống vài ba chục năm trước, giống vịt bầu Quỳ đã được Viện Chăn nuôi nghiên cứu bảo tồn nguồn gen. Đặc biệt, nó đã được doanh nghiệp tư nhân Diệu Châu dày công nuôi và kiên trì nhân giống, đồng thời đăng ký bảo hộ thương hiệu. Dự án cạnh tranh nông nghiệp do Ngân hàng Thế giới tài trợ đã giúp đỡ doanh nghiệp này liên kết với nông dân hình thành nên Liên minh sản xuất và kinh doanh vịt bầu Quỳ. Hiện nay, vịt bầu Quỳ không những được bảo tồn, mà còn phát triển trở thành một sản phẩm hàng hóa có danh tiếng rộng lớn.
Tuy nhiên, không có nhiều sản phẩm có số phận may mắn như hai ví dụ trên đây. Một số sản phẩm như bò Mông, xoài Tương Dương, cánh kiến, thổ cẩm… cũng đã được quan tâm. Nhưng, những tác động về khoa học, về thị trường, về quản lý dù đã có nhưng chưa đủ đồng bộ và đủ mạnh để biến những sản phẩm này trở thành hàng hóa. Đó là chưa kể những sản phẩm như khoai sọ, gừng, gà ác, lợn đen và các loài dược liệu quý hiếm hầu như chưa được quan tâm đầu tư nghiên cứu và phát triển.
Từ những thành công và những mày mò thử nghiệm, gần đây trong chiến lược phát triển cũng như các chương trình kinh tế – xã hội của tỉnh đã quan tâm hơn đến xu hướng này. Trong đó, khẳng định cần phải tác động đến các đặc sản và sản phẩm truyền thống một cách đồng bộ từ khoa học công nghệ (để giải quyết các vấn đề giống; kỹ thuật nuôi, trồng; công nghệ chế biến), đến tổ chức sản xuất, chế biến, đến xây dựng thương hiệu, tổ chức thị trường.
Hãy lấy ví dụ con bò Mông, đây là giống bò có tầm vóc cao lớn, có phẩm chất thịt tốt, đặc biệt đã thích nghi với khí hậu, thổ nhưỡng vùng cao. Gần đây một dự án khoa học nhỏ đã tác động đến con bò Mông ở Kỳ Sơn mới chỉ ở hai khâu là thức ăn và thú y, thế nhưng đã mang lại hiệu quả rất tốt. Nếu như được đầu tư để giải quyết rốt ráo khâu giống (khắc phục tình trạng cận huyết hiện nay); khâu chăm sóc và tổ chức nuôi, cùng với chế biến và xây dựng, phát triển thương hiệu, thì câu chuyện thịt bò Mông cạnh tranh ngang ngửa với thịt bò ngoại là điều không đến nỗi xa vời.
Thành công bước đầu của một số mô hình nghiên cứu và ứng dụng đã khẳng định tính khả thi của việc biến các đặc sản và sản phẩm truyền thống thành hàng hóa. Tuy nhiên, cản trở lớn nhất hiện nay chính là hình thức tổ chức sản xuất. Tuyệt đại bộ phận các sản vật nói trên đang là sản phẩm của kinh tế hộ, thậm chí là của những hình thức tổ chức sản xuất hết sức sơ khai, lạc hậu và cực kỳ manh mún, kể cả du canh, du cư. Bởi vậy, để hiện thực hóa xu hướng này đang rất cần vai trò trụ cột, nòng cốt của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Họ vừa là người xây dựng các cơ sở chế biến, vừa tổ chức xây dựng vùng nguyên liệu, tổ chức thu mua sản phẩm cho người nông dân. Câu chuyện phát triển cây chanh leo ở Quế Phong trong những năm gần đây với vai trò nòng cốt, dẫn dắt của doanh nghiệp là một mô hình đáng tham khảo.
Rõ ràng đặc sản và các sản phẩm truyền thống không chỉ là sản phẩm của sự đa dạng sinh học và độc đáo văn hóa, mà còn chứa đựng tiềm năng thương mại to lớn. Đặc biệt trong xu thế tiêu dùng hướng về các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên và được chế biến bởi bàn tay con người, mang bản sắc văn hóa vùng, miền thì cơ hội để cho đặc sản trở thành hàng hóa càng rộng mở hơn bao giờ hết. Khai thác thế mạnh này cũng là lời giải cho bài toán phát triển kinh tế mà không triệt tiêu, không xâm hại đến văn hóa.